Dòng tiền tự do (FCF) thể hiện lượng tiền mặt có sẵn để công ty trả nợ cho các chủ nợ hoặc trả cổ tức và lãi suất cho các nhà đầu tư. Nó điều chỉnh thu nhập ròng bằng cách điều chỉnh các chi phí không dùng tiền mặt, thay đổi vốn lưu động và chi tiêu vốn (CAPEX).
1. Dòng tiền tự do (FCF) là gì?
Dòng tiền tự do (FCF) đại diện cho lượng tiền mặt mà một công ty tạo ra sau khi hạch toán các dòng tiền ra để hỗ trợ hoạt động và duy trì tài sản vốn của mình . Không giống như thu nhập hoặc thu nhập ròng.
Nó là thước đo khả năng sinh lời loại trừ các chi phí không bằng tiền trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bao gồm chi tiêu cho thiết bị và tài sản cũng như thay đổi vốn lưu động từ bảng cân đối kế toán.
Các khoản thanh toán lãi suất được loại trừ khỏi định nghĩa được chấp nhận chung về dòng tiền tự do. Các nhà phân tích và ngân hàng đầu tư, những người cần đánh giá hiệu quả hoạt động dự kiến của một doanh nghiệp với các cấu trúc vốn khác nhau.
Sẽ sử dụng các biến thể của dòng tiền tự do cho công ty và dòng tiền này đối với vốn chủ sở hữu, được điều chỉnh cho các khoản trả lãi và vay.
Tương tự như doanh thu và thu nhập, dòng tiền này thường được đánh giá trên cơ sở mỗi cổ phiếu để đánh giá ảnh hưởng của việc pha loãng.

2. Lợi ích và hạn chế của nó
FCF là dòng tiền có sẵn để công ty trả nợ cho các chủ nợ hoặc trả cổ tức và lãi cho các nhà đầu tư. Một số nhà đầu tư thích CIF hoặc FCF trên mỗi cổ phiếu hơn thu nhập hoặc thu nhập trên mỗi cổ phiếu như một thước đo khả năng sinh lời vì nó loại bỏ các khoản mục không phải tiền mặt khỏi báo cáo thu nhập.
Tuy nhiên, do FCF hạch toán các khoản đầu tư vào bất động sản, nhà máy và thiết bị nên nó có thể bị gộp và không đồng đều theo thời gian.

2.1. Lợi ích
Vì FCF tính đến những thay đổi trong vốn lưu động, nó có thể cung cấp những hiểu biết quan trọng về giá trị của một công ty và sức khỏe của các xu hướng cơ bản của nó. Ví dụ: giảm các khoản phải trả (dòng ra) có thể có nghĩa là các nhà cung cấp đang yêu cầu thanh toán nhanh hơn.
Việc giảm các khoản phải thu (dòng vào) có thể có nghĩa là công ty đang thu tiền từ khách hàng nhanh hơn. Lượng hàng tồn kho tăng lên (dòng ra ngoài) có thể cho thấy một kho dự trữ các sản phẩm chưa bán được đang xây dựng. Việc bao gồm vốn lưu động trong một thước đo khả năng sinh lời cung cấp một cái nhìn sâu sắc còn thiếu trong báo cáo thu nhập.
Ví dụ, giả sử rằng một công ty đã kiếm được 50.000.000 đô la mỗi năm thu nhập ròng mỗi năm trong thập kỷ qua. Bề ngoài, điều đó có vẻ ổn định nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu FCF giảm trong hai năm qua khi hàng tồn kho tăng lên (dòng ra).
Khách hàng bắt đầu trì hoãn thanh toán (dòng ra) và các nhà cung cấp bắt đầu yêu cầu công ty thanh toán nhanh hơn (dòng ra)? Trong tình huống này, FCF sẽ bộc lộ một điểm yếu tài chính nghiêm trọng mà nếu chỉ xem xét báo cáo thu nhập thì sẽ không thể thấy rõ.
2.2. Hạn chế
Hãy tưởng tượng một công ty có thu nhập trước khấu hao, khấu hao, lãi vay và thuế ( EBITDA ) là 1.000.000 đô la trong một năm nhất định. Đồng thời, giả sử rằng công ty này không có thay đổi về vốn lưu động (tài sản lưu động – nợ ngắn hạn) nhưng họ đã mua thiết bị mới trị giá 800.000 đô la vào cuối năm.
Chi phí của thiết bị mới sẽ được phân bổ theo thời gian thông qua khấu hao trên báo cáo thu nhập, điều này sẽ loại trừ tác động đến thu nhập. Tuy nhiên, vì FCF tính khoản tiền mặt chi cho thiết bị mới trong năm hiện tại, công ty sẽ báo cáo $ 200.000 FCF ($ 1.000.000 EBITDA – $ 800.000 Thiết bị) trên 1.000.000 $ EBITDA trong năm đó.
Nếu giả định rằng mọi thứ khác vẫn như cũ và không có thêm thiết bị mua sắm nào, EBITDA và FCF sẽ lại bằng nhau vào năm sau. Trong tình huống này, nhà đầu tư sẽ phải xác định lý do tại sao FCF lại giảm nhanh như vậy chỉ trong một năm để quay trở lại mức cũ và liệu sự thay đổi đó có khả năng tiếp tục diễn ra hay không.
Hi vọng qua bài viết này bạn sẽ hiểu được một phần thế nào là dòng tiền tự do và tầm quan trọng của nó trong kinh tế thị trường hiện nay.